Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát được nhiều người tôn thờ trong Phật Giáo Đông Á. Dưới đây là một số điều ít người biết về vị Bồ Tát này, quý Phật tử có thể tham khảo.
Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát được mệnh danh là một vị Bồ Tát cứu độ cho chúng sinh. Chắc hẳn có rất nhiều người thắc mắc rằng Ngài đã phải trải qua những gì để trở thành Bồ Tát? Ý nghĩa việc thỉnh tượng của Ngài là như thế nào? Bạn hãy cùng chúng tôi đi tìm hiểu ở bài viết sau đây nhé.
Tìm Hiểu Về Địa Tạng Vương Bồ Tát Là Ai?
Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát là ai?
Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát chính là một trong sáu vị Bồ Tát quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Năm vị Bồ Tát còn lại là Phổ Hiền Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,Quán Thế Âm Bồ Tát và Di Lặc Bồ Tát.
Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát là một vị Bồ Tát đại từ đại bi thệ nguyện độ thế rất rộng lớn. Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát là giáo chủ của cõi U Minh. Địa có nghĩa là đất. Tạng có nghĩa là trùm chứa. Ngài Bồ Tát có lập đại nguyện tế độ tất cả chúng sinh cũng như đất là nơi nương tựa cho muôn sự muôn vật nên gọi là Địa.
Theo Phật Giáo Đông Á, Địa Tạng Vương Bồ Tát là một trong những vị Bồ Tát được rất nhiều người biết đến và tôn thờ. Trong các tài liệu của những học giả nghiên cứu về Phật giáo có ghi chép rằng tín ngưỡng tôn thờ Địa Tạng Bồ Tát đã xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ I hoặc II TCN.
Ngài là người đã cứu độ cho tất cả chúng sinh ở trong lục đạo luân hồi vào thời kỳ sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn và cho tới khi Bồ Tát Di Lặc hạ sinh. Địa Tạng Vương nguyện rằng sẽ không chứng Phật quả nếu như dưới địa ngục vẫn chưa trống rỗng.
Do đó Ngài còn được mệnh danh là một Bồ Tát của chúng sinh khi ở dưới địa ngục hay Ngài còn là giáo chủ của cõi U Minh.
Theo những tài liệu Phật Giáo, khi Phật Thích Ca Mâu Ni ở cung trời Đao Lợi, Đức Phật đã ân cần căn dặn Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát rằng sau khi Đức Phật viên tịch và trước khi Di Lặc thành Phật thì Ngài phải đảm nhận trọng trách độ hóa chúng sanh ở Thế giới Ta Bà.
Ngài Địa Tạng rơi lệ, cam kết với Đức Phật sẽ hết sức độ hóa giải thoát cho chúng sanh để họ quy y Tam bảo, rời khỏi khổ nạn. Trước Phật Thích Ca, Ngài đã lập ra lời thệ nguyện sẽ vì các chúng sinh trong lục đạo mà cấp phương tiện để họ được giải thoát hết thì bản thân Ngài mới thành Phật.
Cũng có người lý giải rằng nghĩa của chữ “Địa” nương theo Kinh Địa Tạng có viết: “U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”. Vì cách sử dụng từ ngữ trong kinh điển rất sát nghĩa và rõ ràng nên “Bổn” có nghĩa là Bổn tâm, “Tôn” có nghĩa là tôn quý, “Địa” có nghĩa là tâm địa, “Tạng” là Như Lai tạng.
Như vậy, chỉ có Bổn tâm chính là tôn quý nhất, đó là kho Như Lai tạng tâm địa. Chỉ có Bổn tâm mới làm chủ được cõi u minh, tức là làm chủ cõi địa ngục tham – sân – si của chính bản thân mình.
Nếu xét theo văn hóa Nhật Bản, Địa Tạng Vương được xem như là bùa hộ mệnh của trẻ em. Ngài sẽ bảo vệ cho mọi vong linh của trẻ em hay bảo vệ cho những bào thai được coi là yếu ớt nhất. Ngài Địa Tạng Vương xuất hiện sẽ giúp an ủi và giảng giải cho các trẻ em, Ngài Địa tạng Vương Bồ Tát tạo công đức để trẻ em bước qua sông và được đầu thai thành kiếp khác.
Vía Địa Tạng Vương Bồ Tát
Theo phong tục hàng năm, các chùa Bắc Tông thường tổ chức cúng vía Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát vào ngày 30 tháng 7 Âm Lịch.
Với mong muốn rằng gương hạnh nguyện của Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ mãi thắp sáng trong tâm thức của chúng sanh ở nơi trần thế, được sớm chuyển tăng phước báu về cõi trời, không đọa ba đường ác.
Tháng 7 Âm Lịch hàng năm, người dân thường tổ chức lễ tạ ơn Địa Tạng Vương Bồ Tát và Diêm Vương để tưởng nhớ ân đức của các Ngài.
Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát là nam hay nữ?
Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát với tấm lòng phát tâm từ bi, dũng mãnh muốn cứu vớt tất cả chúng sanh đang chịu khổ nạn trong Địa Ngục, Ngài đã trải qua hằng hà sa số kiếp, có kiếp Ngài là nam, có kiếp Ngài lại là nữ nhân… cho đến khi thành Địa Tạng Vương Bồ Tát, Ngài vẫn phát nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh rồi Ngài mới thành Phật.
Địa Tạng Vương Bồ Tát cưỡi con thú nào?
Thú cưỡi của Địa Tạng Vương Bồ Tát chính là Đề Thính thần thú (Linh Khuyển). Theo truyền thuyết thì Đề Thính là một linh thú có khả năng nghe được mọi thứ trong Tam Thế, giúp Địa Tạng Vương Bồ Tát phân biệt được những việc thật giả, đúng sai.
Đề Thính chính là thú cưỡi của Địa Tạng Vương Bồ Tát trong suốt hành trình phổ độ chúng sanh.
Chỉ cần nằm mọp xuống trong giây lát là Đề Thính có thể thấy rõ được mọi việc xảy ra trong Tam Giới, giúp Địa Tạng Vương vừa nghe được pháp âm của Thập Phương Chư Phật, vừa nghe được những lời than khổ của thập vạn chúng sinh mà phát tâm tế độ.
Những Tiền Thân Của Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát
Theo Kinh Địa Tạng Bồ tát thì Ngài Địa Tạng Bồ Tát có bốn tiền thân ứng với bốn đại nguyện của Ngài.
Sau đây là những câu chuyện về tiền thân của Ngài
Câu chuyện số 1: Ngài là trưởng giả tử (con của vị trưởng giả)
Trong thời Đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, tiền thân của Ngài Địa Tạng Bồ Tát là con một vị trưởng giả. Vì nhìn thấy Đức Phật tướng mạo tốt đẹp nghìn phước trang nghiêm nên trưởng giả tử mới bạch hỏi Ngài đã tu hạnh nguyện gì mà được tốt đẹp như thế?
Khi ấy, Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai đã bảo trưởng giả tử rằng: “Muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần trải qua trong một thời gian lâu xa độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ”.
Trưởng giả tử nghe xong liền phát nguyện : “Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Đạo”.
Chính vì lời thệ nguyện rộng lớn đó mà đến nay, trải qua trăm nghìn muôn ức vô số kiếp Ngài vẫn là một vị Bồ Tát.
Câu chuyện số 2: Ngài là ông vua của một nước
Lại trong vô lượng kiếp quá khứ trở về trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai. Khi chưa xuất gia, Ngài làm vua nước nhỏ và kết bạn với ông vua nước láng giềng lân cận.
Ngài đã cùng với vua nước lân cận thực hành mười hạnh lành làm lợi ích cho nhân dân. Nhân dân trong nước lân cận ấy phần nhiều tạo ra những việc ác nên hai vua cùng nhau bàn tính những phương cách để dắt dìu dân chúng.
Một ông phát nguyện rằng: “Tôi nguyện sớm thành Phật sẽ độ dân chúng ấy làm cho đều được giải thoát không còn thừa”. Một ông vua còn lại phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Đề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật”.
Ông vua phát nguyện sớm thành Phật rồi độ chúng sinh là Ngài Đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai. Còn ông vua phát nguyện độ hết tất cả chúng sinh rồi mới thành Phật chính là Ngài Địa Tạng Bồ Tát.
Câu chuyện số 3: Ngài là con gái dòng Bà La Môn
Đức Bồ Tát Địa Tạng trong vô số kiếp lâu xa trở về trước là con gái của dòng Bà La Môn, phước đức sâu dày, thường có chư Thiên theo hộ vệ.
Mẹ của cô là một người mê tín tà đạo, khinh khi ngôi Tam Bảo, dù Thánh nữ đã nhiều lời khuyên nhủ nhưng mẹ chưa tin hẳn nên khi chết bị đọa địa ngục Vô Gián.
Vì tin nhân quả, biết mẹ sẽ phải sinh vào đường ác nên cô bán nhà, đất, sắm hương hoa, đồ lễ, phát tâm cúng dường tại những ngôi chùa thờ Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai.
Trong một lần chiêm bái hình tượng của Ngài, cô sinh lòng kính ngưỡng, thầm nghĩ rằng nếu Đức Phật còn trụ ở đời thì sẽ biết rõ mẹ cô tái sinh vào nơi nào. Bỗng nhiên trên không trung đã có tiếng vọng rằng: Ta là Đức Phật Quá Khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, thấy cô thương mẹ mình trội hơn thường tình nên ta đến chỉ bảo cô cách thức để cô biết nơi mẹ thác sinh.
Vâng lời Đức Phật, sau khi đã cúng dường, cô trở về và đối trước tượng Phật, cô ngồi ngay thẳng quán tưởng danh hiệu Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai.
Trải qua một ngày một đêm, cô thấy mình đang đến một bờ biển, ở đó có những trai cùng gái đang chìm nổi trong biển sôi sùng sục bị thú dữ giành nhau ăn thịt.
Lúc ấy, Quỷ Vô Độc đến và cho cô biết đây chính là địa ngục, những người đọa vào đây do khi sống không gieo nhân lành, tạo bao ác nghiệp, khi chết đi, trong vòng 49 ngày không có người làm phúc hồi hướng cho nên cứ theo nghiệp mà chịu khổ.
Khi Thánh nữ hỏi Quỷ Vương về nơi thác sinh của mẹ thì được hay rằng do nhờ cô hiếu thuận làm phúc cho nên mẹ đầy đủ phúc duyên thoát địa ngục, được sinh về cõi Trời. Cũng nhờ công đức ấy mà trong ngày đó những tội nhân ở nơi địa ngục cũng tái sinh về cõi lành.
Bấy giờ, Thánh nữ chiêm bao chợt tỉnh giấc, thấu rõ mọi việc, cô liền đối trước tháp tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai đã phát nguyện rộng lớn: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai về sau những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi sẽ lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát”.
Câu chuyện số 4:Ngài là Quang Mục cứu mẹ
Lại vô lượng vô số kiếp về trước, Ngài Đức Địa Tạng Bồ Tát từng là người con gái tên Quang Mục. Vì muốn cứu mẹ đã khuất nên cô đã làm việc phước thiện, cúng dường vị La Hán để hồi hướng phúc báu cho mẹ, bởi khi còn sống, mẹ cô ưa giết hại và ăn thịt các loài cá trạnh.
Cảm thương trước tâm hiếu hạnh của Quang Mục, vị La Hán cho cô biết mẹ cô bị đọa địa ngục và khuyên cô nên đem lòng chí thành niệm Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, vẽ đắp hình tượng Phật thì kẻ còn người mất đều nhận được phước lợi.
Cô vâng theo lời dạy, liền xuất tiền của, tạo tôn tượng Đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai rồi thành kính thờ cúng, đảnh lễ.
Lòng thành kính của cô đã cảm ứng tới Đức Liên Hoa Mục Như Lai, một đêm nàng đã chiêm bao thấy Đức Phật phóng ánh sáng và bảo rằng: Chẳng bao lâu mẹ của ngươi sẽ thác sinh vào trong nhà của ngươi, khi biết đói biết lạnh thì liền biết nói.
Sau đó, đứa tớ gái trong nhà cô sinh bé trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói, đứa trẻ buồn khóc và đã nói với Quang Mục rằng: Ta là mẹ của ngươi, nhờ phước ngươi tạo nên nay được sinh làm kẻ hạ tiện nhưng đến năm 13 tuổi ta sẽ bị đọa địa ngục.
Vì không muốn mẹ và chúng sanh chịu khổ trong luân hồi sinh tử, Quang Mục đối trước tượng Đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai và phát lời nguyện Bồ đề rộng lớn rằng:
“Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp trong thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,… Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác”.
Nhờ công đức phát nguyện rộng lớn đó, mẹ cô khi đã bỏ báo thân tái sinh làm người Phạm Chí sống lâu trăm tuổi.
Sau đó đã vãng sinh về cõi nước Vô Ưu sống lâu không thể tính kể. Và cuối cùng sẽ trở thành Phật, độ nhiều hạng người, Trời nhiều như số cát sông Hằng.
Hình Tượng Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát Là Gì?
Ngài Địa Tạng Vương Bồ tát được mô tả với hình tượng là một vị Bồ tát rất từ bi, đầu đội mão tỳ lư, có vầng sáng hào quang trên đầu. Ngài đứng trên tòa sen hoặc ngồi trên tòa sen do Đề Thính (linh thú của Địa Tạng Vương Bồ tát) đỡ lấy.
Tùy khí của Ngài chính là viên ngọc Như Ý, thường được cầm ở tay trái, tượng trưng cho ánh sáng xua tan bóng đêm hắc ám, tay phải của Ngài cầm tích trượng là vật để mở cửa địa ngục.
Một số tranh tượng ở Việt Nam và Trung Quốc thì khắc họa hình tượng Ngài Địa Tạng Vương Bồ tát mặc áo cà sa màu đỏ, đội mũ thất phật (hình ảnh tu sĩ Phật giáo Bắc truyền).
Hình tượng nhân vật Đường Tam Tạng (Đường Tăng) trong Tây Du Ký rất giống với hình tượng của Ngài Địa Tạng Vương Bồ tát.
Ở Nhật Bản, Địa Tạng Bồ tát đã được tôn thờ là vị Bồ tát hộ mệnh cho những trẻ em và bảo vệ các bào thai chết em, các vong linh của trẻ em. Ở đây, phần lớn các bức tranh tượng của Ngài được biểu hiện giống hoặc liên quan đến trẻ thơ.
Có những bức tranh tượng khắc họa khuôn mặt Ngài rất ngây thơ, hồn nhiên trông rất giống trẻ em. Có những bức tranh tượng mô tả Ngài tay bồng một em bé, dưới chân có vài ba em bé khác đang níu thiền trượng và Tăng bào của Ngài. Ở một số nơi thì tượng Ngài hay được tôn thờ bên những con suối, dòng sông.
Ngài được tin rằng sẽ luôn bảo hộ cho những người khách đi đường, người lính cứu hỏa, những phụ nữ có thai và đặc biệt là những trẻ em bất hạnh.
Ngài sẽ luôn hiện thân bảo vệ những đứa trẻ bị bạo hành ngược đãi trong gia đình. Với những đứa trẻ bất hạnh yểu mạng, Ngài thường an ủi và chở che cho chúng, giúp chúng tích tạo công đức để kiếp sau sanh ra được bình an, khỏe mạnh.
Ý Nghĩa Của Việc Thờ Tôn Tượng Địa Tạng Bồ Tát
Ngài Địa Tạng Vương Bồ tát có hạnh nguyện là cứu độ tất cả chúng sanh trong lục đạo luân hồi, dùng pháp lực và lòng từ bi của Ngài để phổ độ cho chúng sinh, cứu rỗi những linh hồn sa vào địa ngục, giúp mọi người đều được lên cõi Vĩnh Hằng.
Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát được tôn xưng là một trong tứ Đại Bồ tát có pháp lực vô biên và lòng từ bi vô hạn độ, có trọng trách độ hóa chúng sanh ở thế giới Ta Bà để họ được giải thoát khỏi cõi U Minh tăm tối.
Theo kinh Địa Tạng Bản Nguyện, những thiện nam tín nữ mà chi tâm quy y, cúng dường, chiêm ngưỡng, lễ bái, tô vẽ hình tượng Địa Tạng Vương Bồ tát trong hiện tại sẽ được tiêu trừ bệnh tật, tiêu trừ tai họa, các tội chướng, có thể thoát khỏi hiểm nguy, được quỷ thần hộ về.
Người thành tâm tụng niệm danh xưng của Địa Tạng Bồ tát cũng sẽ được trí huệ to lớn, mau chóng hoàn thành ước nguyện.
Bất kể người nào khi nghĩ đến đại nguyện của Ngài là “Địa ngục không trống thề không thành Phật, chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ Đề” của Ngài thì linh hồn của người đó sẽ trải qua một lần triệt ngộ. Tự bổn tâm sẽ sản sinh ra tâm rời xa tự ngã, luôn muốn thực hiện hành động có ích cho xã hội, cho người khác.
Những người thờ phụng Địa Tạng Bồ Tát, khi nghĩ đến việc Ngài vì mẹ của mình mà vĩnh viễn ở địa ngục, hết lòng cứu độ cho chúng sinh, coi chúng sinh như cha mẹ của mình… thì trong lòng đều sẽ sinh ra cảm giác kính trọng Ngài, bất giác nghĩ đến cha mẹ mình.
Trong lòng sẽ nảy sinh ra ý niệm mong muốn được tận hiếu, sẽ tự giác thành kính tự nguyện đảnh lễ Địa Tạng Bồ tát. Bởi Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát là biểu pháp cho tinh thần hiếu đạo, công đức của Ngài sâu như biển cả, rộng như hư không.
Những chúng sinh nào mà niệm danh hiệu Địa Tạng, niệm kinh Địa Tạng, hồi hướng cho người thân của mình giúp họ tiếp cận được thiện tri thức, gieo nhân thiện, biết rõ nhân quả, biết hối hận, biết tội lỗi.
Dựa vào thần lực của Ngài Địa Tạng Bồ tát và công đức bản thân mà thoát khỏi nỗi khổ địa ngục, không bị lưu lạc vào ác đạo, sớm tái sanh ở cõi Trời, cõi người.
Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát Có Phải Là Đường Tam Tạng Không?
Có rất nhiều người vẫn luôn thắc mắc rằng Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát có phải là Đường Tam Tạng hay không. Đồng thời vẫn còn có nhiều người nhầm lẫn rằng hai người này là một. Bởi hiện các bức tượng của Ngài Địa Tạng Vương và Đường Tam Tạng được khắc họa có đôi nét giống nhau và pháp danh của hai Ngài nghe cũng dễ nhầm lẫn.
Câu trả lời cho thắc mắc trên là Địa Tạng Vương Bồ Tát không phải Đường Tam Tạng. Hai vị Bồ Tát là hoàn toàn khác nhau và cuộc đời luân trải của hai Ngài cũng không giống nhau. Địa Tạng Vương Bồ Tát có cuộc đời đã giới thiệu chi tiết ở phần trên còn với Đường Tam Tạng thì ngài lại có cuộc đời luân trải khác.
Một Số Chú Ý Khi Thờ Tôn Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Người thành tâm tôn thờ tôn tượng Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát thì cuộc sống hiện tại sẽ được yên bình, có được trí huệ lớn, được quỷ thần hộ vệ, tiêu trừ bệnh tật tội chướng; có thể thoát khỏi hiểm nguy, tiêu trừ tai nạn và những nguyện lớn có thể sẽ thành hiện thực. Trong kiếp sau, người ấy có thể sẽ được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ, thoát khỏi thân nữ.
Đối với người sắp mất, chúng ta có thể niệm danh hiệu, tụng kinh Địa Tạng và làm nhiều việc thiện cho người đó để giúp họ được siêu thoát. Nếu trong giấc ngủ mà gặp phải người lạ, các sự quá ác, gặp phải ma quỷ… thành tâm tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp siêu độ vong linh, gặp lại người thân quá vãng.
Việc thờ tôn tượng Ngài Địa Tạng Bồ tát, thành tâm đảnh lễ, cúng dường Ngài có thể mang lại cho chúng ta phước báu dài lâu, to lớn. Khi thờ tượng Ngài tại gia gia chủ cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
- Tượng Ngài Địa Tạng Vương Bồ tát có thể được thờ độc tôn hoặc thờ trong bộ Ta Bà Tam Thánh (gồm Phật Thích Ca Mâu Ni, Quán Thế Âm Bồ tát, Địa Tạng Vương Bồ tát). Khi chọn tượng Địa Tạng Bồ tát, nên t quan sát tỉ mỉ, thỉnh những tôn tượng có bố cục hợp lý, tính thẩm mỹ cao, tránh chọn những tượng mày cau, môi chum, không có thần thái từ bi hỷ xả.
- Nếu thờ tượng Phật thì tượng Phật đặt ở vị trí cao nhất rồi đến tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bàn thờ Phật nên đặt ở vị trí trung tâm ngôi nhà, đối diện với hướng đi chính để phát huy tốt tác dụng cảm hóa an lạc, bàn thờ Phật nên cao hơn đầu gia chủ.
- Với những nhà ở phố, nên đặt tượng Phật ở phòng cao nhất, đối diện ban công, không có không gian khác đè lên. Không đặt bàn thờ ở những nơi đông người, nơi ăn uống, thường xuyên tiếp khách, cười đùa, nói chuyện. Không đặt bàn thờ hướng về những nơi như phía nhà vệ sinh, nhà bếp, phòng ngủ hay chân cầu thang.
- Trước khi thỉnh tượng Địa Tạng Bồ Tát, nên chuẩn bị bàn thờ Phật trang nghiêm, chu đáo, đầy đủ những đồ dùng cần thiết như bình hoa, đĩa quả, lư hương, đôi đèn thờ, chén nước sạch.
- Không đặt các vật như là giấy tiền, vàng mã, bùa chú lên bàn thờ Phật. Hoa quả trà nước nên thay thường xuyên, tránh để hư hỏng,héo úa. Nếu trái cây còn dùng được thì nên dùng hoặc đem cho, không vứt trái cây đi trừ trường hợp đã bị hỏng.
- Nên dâng mâm cỗ cúng chay vào những ngày mùng 1, 15, các ngày lễ lớn của nhà Phật và ngày vía Địa Tạng Vương Bồ tát là ngày 30 tháng 7 Âm lịch hàng năm.
Ngài Địa Tạng Vương Bồ tát là vị Bồ tát được tôn thờ phổ biến trong Phật giáo Đông Á, Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát được xem như giáo chủ của cõi U Minh, Bồ tát của chúng sanh ở cõi địa ngục âm u. Ngài có công năng và oai lực bao trùm Tam Giới, được chúng sinh tôn sùng bởi công đức sâu rộng của Ngài và hạnh nguyện của Ngài là cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi.